Xong bữa cơm trưa trên văn phòng, ăn nấy đều ôm chăn mỏng và gối di chuyển về phòng nằm chợp mắt ít phút để chiều dậy tiếp tục chiến đấu, tôi là đứa hiếm khi ngủ trưa. Vào những trưa không ngủ, tôi thường lọ mọ ngồi đọc vài mẩu truyện vui trên máy tính hoặc đứng nhìn xuống dưới mặt đất sâu hun hít từ tầng 24 tòa nhà cao ốc dưới cái nắng gay gắt của những ngày cuối hạ.

Càng về trưa, tiết trời càng oi ả. Tôi đứng dựa lưng vào thành tường sơn màu ghi sáng bóng, vừa nhâm nhi tách cà phê đá, vừa nheo mắt nhìn về phía chân trời nắng như một đám cháy lớn thiêu đốt cả mặt đất. Những ngôi nhà sặc sỡ, cầu kỳ, cao thấp vô tội vạ, khác với ngôi nhà ba gian xây từ dạo 1993 dột nát vẫn gõ nhịp đêm mưa. Căn nhà tôi nhớ đến những ngày oi bức bị nắng hắt xuống qua những hòn ngói vênh khiến bên trong có nhiều đốm sáng nhỏ như bầu trời đêm, đen kịt nhìn rõ những ngôi sao. Đó là nơi tôi đã sống trong suốt 20 năm cuộc đời.

Tôi sinh tuổi Dậu, mẹ vẫn đùa đuổi tôi đi xa “bới đất kiếm ăn”. Học hết lớp 12, cũng đến lúc tôi phải rời xa gia đình để vào đại học. Có những chiều, tôi lướt điện thoại qua niềm yêu thích mà bẵng quên những “Chiều chiều ra đứng ngõ sau – Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều”. Để có những đêm thức muộn, chong đèn đọc sách để cửa khép hờ, giọng rao tiếng địa phương của người đàn bà nọ khiến lòng tôi rối bời.

***

Ngày còn nhỏ, được nghỉ hè là lúc bọn trẻ chúng tôi háo hức nhất. Con nhà nghèo, tôi không biết đến những chuyến du lịch tham quan, tắm biển hay đi chơi sở thú, cũng không có bà con họ hàng ở xa để đến thăm nhà. Tôi chỉ biết đó mùa oi bức nhất trong năm, mùa gặt lúa, phơi thóc rơm. Quê vào vụ lúa, sân đầy những hạt thóc to đều, vàng ươm. Bố mẹ tôi ra ngoài đồng gặt lúa và chở về bằng xe đạp thồ. Sân thóc đầy, ngoài ngõ đầy một đường rơm vàng óng, anh em tôi đứa lên Mười, đứa mới Bảy tuổi “chịu trách nhiệm” rũi thóc, gẩy rơm, đến chiều tối thì đứa cào thóc vun thành đống hình quả núi rồi đậy bạt kín để ngày hôm sau lại phơi tiếp, đứa gẩy rơm cũng ụ lại những đống trông tròn tròn như cây nấm không có chân. Những ngày trời âm u, anh em tôi vất vả hơn khi phải xúc thóc vào thúng, sau đó đổ vào bao bã mía, buộc lại rồi nghiến răng nghiến lợi khênh lên bậc hè.

Tôi vẫn nhớ những trưa hè nắng chói chang, anh tôi trèo chót vót lên tận ngọn me hái quả. Tôi đứng dưới há hốc miệng, đợi anh ném quả xuống thì chìa chiếc nón đã chóc rách ngoài viền mép để hứng. Thằng em nhà chú tôi béo quay. Nó chẳng biết trèo cây, cũng chẳng biết hứng quả. Anh em tôi bắt nạt nó, sai về nhà lấy bột canh mỳ tôm cho cả bọn chấm. Ngồi dưới gốc me hút gió trời, anh tôi thỉnh thoảng lại chạy ù về nhà rũi những đường lượn sóng ngoằn nghèo trên sân thóc.

Nghe tiếng xe thồ chở lúa kêu cọt kẹt, hai anh em lại hối hả chạy ùa ra đùn sau những lượm lúa được bố mẹ bó lại, chất lên xe cẩn thận. Anh giục tôi chạy về nhà trước, pha một ca nước me để bố mẹ uống giải khát. Tôi muốn lập công nên cuống quýt chạy về nhà, mở nắp che bụi trên bể nước mưa, vục lấy một ca nước mát lạnh để pha nước.

Có những ngày oi ả, trời bỗng đổ mưa bất chợt. Bố mẹ tôi ướt lướt sướt từ ngoài đồng cố chở chuyến xe lúa về nhà. Ở nhà, anh em tôi cũng hối hả đứa cào, đứa quét thóc vun thành đống rồi đóng bao. Bố mẹ về, cả bốn người tập trung khênh từng bao thóc lên góc hè. Xong sân thóc, hai đứa nghịch đắp gạch đất vào khe thoát nước ở điểm dốc cuối góc sân. Anh tôi bảo cái sân bị ngập nước ấy là bể bơi. Hai đứa lăn lộn, vầy nước mưa thỏa thích. Đám bạn trong xóm tíu tít gọi nhau ngoài ngõ. Anh em tôi bỏ cái sân đầy nước lao ra ngoài đường, chạy vào những nhà quen có ống thoát nước xối mạnh từ trên cao xuống. Tiếng cười đùa ngày ấy non nớt, thơ ngây là những phút giây yên bình đọng lại mãi trong trí nhớ.

***

Từ ngày bố đưa ra bến, tự bắt xe ra Hà Nội học, tôi cũng làm quen dần với những bỡ ngỡ và nỗi nhớ quê nhà. Nhà tôi neo người. Ông bà nội mất sớm. Anh trai tôi sớm tự lập rồi đã có gia đình riêng. Dù đã lớn nhưng bố mẹ vẫn lo lắng cho tôi từng li từng tí. Với tôi, mỗi dịp về quê cuối tuần là một kỷ niệm đáng nhớ.

Chiếc xe khách cuối ngày dừng lại ở ngã ba, cánh cửa mở rộng cho hành khách bước xuống. Bóng tay người đàn ông đen, gầy giơ lên vẫy. Tôi đeo túi xách nặng lệch vai tiến lại, leo tót lên xe. Không phải bác xe ôm vẫy khách, đó là cảnh bố vẫn đến sớm để đợi đón tôi sau mỗi cuộc điện thoại hẹn trước.

Con đường ở quê không ánh đèn điện trở nên sẫm tối. Bố tôi vừa thận trọng quan sát đường, vừa kể chuyện mấy sào lúa bị đổ sau trận bão chập tối hôm trước. Tôi ngồi sau xe chẳng nói gì. Đôi mắt đeo kính cận dày cộm, gườm gườm nhìn đám lúa đổ gần bên đường dưới ánh sáng đỏ quạch từ chiếc xe Angel đã cũ của bố. Bao nhiêu năm, làng quê chẳng đổi khác nhiều. Gia đình tôi vẫn làm nông nghiệp, con đường đất ngày xưa vẫn còn, đồng lúa vẫn đổ rạp sau mỗi mùa mưa bão. Chỉ những người thân tôi đổi thay, người già đi, người trưởng thành rồi có cuộc sống riêng, những gánh lo riêng.

Sau bữa cơm tối muộn, cả nhà quây quần bên nồi ngô luộc khói đang bốc lên nghi ngút, nói đôi ba câu chuyện rồi ai vào giường người nấy ngủ. Ở Hà Nội, phải đến 10 giờ tối đám sinh viên chúng tôi mới bắt đầu ra đường ngồi uống trà đá, trà chanh vỉa hè hay lượn lờ vào vòng hồ Tây. Còn ở quê, mọi người vẫn giữ thói quen ngủ sớm. Sắp vào mùa, mẹ bảo ngủ sớm lấy sức, dăm bữa nữa đi cắt lúa đêm. Từ ngày đi học xa, tôi ít phải đụng chân, đụng tay vào việc đồng áng. Có lần nhớ nhà, tôi ngủ mơ đi theo mẹ ra đồng gặt lúa dưới ánh đèn pin sạc điện đeo ở trước trán từ lúc trời tờ mờ. Gặt lúa đêm có gió mát, cắt đến sáng là xong vài sào lúa, chở về sớm rồi nghỉ ngơi. Cả làng nhà nào cũng lọ mọ dậy giờ ấy, nên cả cánh đồng đâu đâu cũng thấy bóng người cúi lom khom và những tiếng cười đùa râm ran xa gần vọng lại.

***

Ở quê, chiếc giường gỗ đặt trong góc nhà, hướng ra phía cổng là chỗ tôi nằm ngủ. Tôi chọn góc đó bởi ngày còn nhỏ đã có suy nghĩ rất ngây thơ nằm chỗ gần cổng để có đứa nào í ới thì chạy tót đi chơi cho nhanh. Tôi bật cười nhớ lại chuyện này, chuyện nọ. Cánh tay thuận vắt ngang trán nhìn lên những khe sáng nhỏ từ những viên ngói nhiều năm bị xô lệch trên mái nhà. Tôi nằm yên nghe tiếng gáy như xẻ gỗ của bố sau một ngày tưới nhựa đường ngoài nắng, tiếng đàn chó mới đẻ cắn au au, tiếng ếch kêu ồm ộp. Nửa đêm, đứa cháu mới được hai tháng tuổi khóc đòi ti mẹ. Tôi nghe tiếng chị dâu giọng khàn khàn hát ru con i ỉ. Tiếng vỗ mông trẻ bồm bộp chậm dần rồi lịm vào thinh không. Giọng hát hấm hứ trong cổ họng chị bỗng làm tôi nhớ về những ngày còn thơ dại được bà mẹ hát ru.

Tôi chẳng nhớ cái thuở còn ti mẹ đã quấy khóc thế nào, hay thuở biết bò, tập đi tôi làm cả nhà vui vẻ ra sao. Chỉ còn nhớ thuở vẫn quần đùi, áo may ô trốn ngủ trưa, đi bêu nắng. Mẹ gọi khe khẽ hỏi xem tôi đã ngủ chưa nhưng chẳng bao giờ tôi lên tiếng đáp lại, vờ như đã ngủ rất say. Tôi nằm im, đợi bố mẹ ngủ say thì trốn. Cánh cửa gỗ bị mối xông kêu kèn kẹt, mẹ mở mắt thấy bóng tôi thì hỏi, và bao giờ tôi cũng nói dối: “Con đi đái mà mẹ”. Sau đó, cái bóng đen đổ dài dưới ánh nắng, chạy mất dạng cùng tiếng cười giòn tan.

Tôi theo cái Hiền, thằng Đạt đi đào giun câu cá. Cái Hiền mang chai đựng cá, thằng Đạt đào giun, còn tôi đi ngắt lá khoai nước để bọc giun lại. Mấy đứa trẻ rúm rít lại mỗi đứa một việc. Buổi chiều, tôi trở về nhà với bình cá đựng bằng vỏ chai nước. Bố chẳng đánh tôi bao giờ, chỉ cần chạm phải cái nhìn sắc như lườm của bố là đủ sợ rồi. Mặc dù rất sợ bố nhưng tôi vẫn không bỏ được những buổi đi chơi trưa với đám bạn.

Còn mẹ chẳng ưa gì mấy trò con trai mà tôi vẫn chơi. Nhưng xóm nhỏ hiếm con gái nên cứ mỗi chiều tôi đều tham gia đá bóng, bắn bi “cho đủ người”. Thỉnh thoảng, thằng Đạt, cái thằng cao lớn nhất hội hay rủ bọn tôi về nhà xem phim chưởng hoặc hoạt hình. Nhiều hôm mải xem, mẹ gọi về ăn cơm mới sực nhớ ra trời đã tối. Người lớn hay dọa cây duối già nhà ông Duy mọc thò hẳn ra đường có ma. Tôi chẳng biết có ma quỷ thật trên đời hay không nhưng vẫn thấy rờn rợn tóc gáy mỗi lần đi qua đó. Thằng Đạt đưa tôi về đến cổng. Bao giờ nó cũng đứng lại như đợi chờ một điều gì đó. Tôi đoán chắc nó đứng hóng xem tôi có bị bố mẹ mắng hay không. Còn nó nghĩ gì, chẳng ai biết.

Cho đến một ngày đầu tháng Chín, khi tôi lên bảy tuổi, mẹ thông báo về việc tôi sắp vào lớp Một. Mẹ bỏ hết những bộ đồ cầu thủ đá bóng vào ngăn tủ như giấu tiệt chúng đi mãi mãi. Sau đó, mặc chiếc áo sơ mi màu trắng có hình hoa thêu màu hoa mười giờ và chiếc váy xòe xanh đậm. Tôi cũng như những đứa trẻ khác, muốn mùa hè cứ dài mãi để được thỏa sức nô đùa, bêu nắng, chơi bắn bi,.. Những ngày đầu đi học, hầu như ngày nào đến lớp tôi cũng khóc. Vốn dĩ chẳng có đứa trẻ nào thích bị ép vào khuôn phép cả nên chuyện tôi bướng bỉnh cũng là điều chấp nhận được.

Cũng trong năm đó, tôi bị bỏng nước sôi khắp vùng bụng khi với tay lấy bình nước mẹ vừa rót từ phích ra để trên cửa sổ cao. Còn quá nhỏ để xử trí khi bị bỏng rát, tôi gào khóc dữ dội, gọi mẹ. Những ngón tay non nớt kéo phần áo ra đã làm tuột lớp da bụng mỏng. Mẹ hoảng hốt ôm lấy tôi, gọi anh tôi ra vườn hái lá khoai lang giã nát đắp vào bụng. Sau đó, tôi “được” nghỉ học hai tuần nhờ vết bỏng đó.

Sang tuần thứ hai, tôi phụng phịu theo mẹ đến trường học. Vừa bước vào lớp, các bạn nhao nhao chỉ trỏ khiến tôi sợ hãi, òa khóc, đứng nép sau lưng mẹ. Cô giáo dỗ dành, dẫn tôi về chỗ ngồi học. Giờ ra chơi, cái Hân, bạn thân với tôi trong lớp hỏi tôi còn đau không, nó còn tò mò đòi xem cái bụng bị bỏng. Bảy tuổi đã biết xấu hổ, tôi không cho ai đụng vào người cả. Thằng Hiếu, cái thằng tinh quái nhất lớp kéo váy, tốc lên rồi rêu rao khắp lớp “chúng mày ơi cái Trang mặc quần sơ nít”. Chẳng ai để ý đến “bệnh nhân”, thay vào đó là cả lớp hùa vào trêu chọc đến khi tôi òa khóc nức nở. Trường ở gần nhà, tôi cứ vừa lau nước mắt, vừa bỏ học đi về.

Tiếng lạch cạch mẹ dậy uống nước làm tôi giật mình. Vẫn như ngày tôi còn nhỏ, mẹ chui vào trong màn soi đèn bắt muỗi rồi vén mép màn lại cẩn thận:

–  Ngủ đi không mai lại không có sức đi buộc lúa đổ cho mẹ đâu.

***

Nghỉ Tết cũng là một dịp đáng nhớ. Không còn là một đứa trẻ nhưng tôi vẫn háo hức những ngày Tết đến. Đó là dịp tôi được ở nhà lâu hơn với gia đình. Về quê, chiếc xe máy chẳng được ngó ngàng đến. Tôi mở khóa bếp phụ, nơi cất những thứ đồ cũ kỹ để lấy chiếc xe đạp tôi đã sử dụng từ hồi học cấp ba. Mặc chiếc áo khoác đồng phục cũ, đi chiếc xe đạp cũ, tôi hỏi mẹ nhìn mình trông có giống thời học sinh không. Mẹ cười thật hiền, đôi mắt ươn ướt thương tôi những ngày một mình sống xa nhà.

29 Tết, ở dưới quê, việc quét mạng nhện, dọn dẹp là đấng mày râu lo. Tôi chở mẹ đi chợ Tết. Ra chợ, nào mua hương trầm, mâm ngũ quả; nào đặt giò, mua khoai tây, cà rốt, mộc nhĩ, miến, măng khô, thịt lợn, đỗ xanh,.. Chợ Tết quê bình yên, giản dị, năm nào cũng thế nhưng không khí mùa xuân vẫn nhộn nhịp, vui tươi.

Về đến nhà, tôi lại đạp xe lên nhà ngoại cách nhà một cây số, biếu ông bát cháo gà nóng mới nấu chín, nhân tiện cắt lá dong về chuẩn bị gói bánh chưng. Bà tôi không còn nữa, chỉ còn ông ngoại sống cùng gia đình nhà cậu út. Ông cũng đã ngoài 80, tuy đãng trí nhưng chẳng bao giờ quên nhắc lại chuyện cũ: “Ngày bé, ông bế mày nhiều nhất. Mẹ đi cấy vùng cá, ở nhà ông bế cứ khóc oe oe, ông lại bế ra đồng gọi “Hương ơi, về cho cái bé bú tí”. Tôi nghe câu chuyện đó của ông không biết bao nhiêu lần, nhưng chẳng bao giờ dám ngắt lời khi ông hào hứng kể. Mắt ông rưng rưng lệ, cổ họng hút thuốc lào nhiều, vướng đờm nên thỉnh thoảng lại húng hắng ho.

Đến sáng 30 Tết, năm nào tôi cũng giúp mẹ dọn chân hương trên ban thờ. Xong việc, tôi ngồi xổm xem bố gói bánh chưng. Mẹ kể ngày xưa ông bà nội mất sớm, nhà lại nghèo, sống với cụ, bố phải làm đủ nghề: thợ xây, phu hồ, và còn gói bánh chưng để cụ đem lên chợ huyện bán,.. nên giờ bố làm gì cũng khéo.

Ngày Tết, dù trời lạnh, tôi cũng dậy sớm lạch cạch chuẩn bị làm mâm cơm cúng. Đứa con gái mới 19 tuổi cũng làm được việc ra trò. Tôi bắt đầu từng việc một từ sắp bát đũa vào mâm; bóc lá bánh chưng, cắt thành 6 góc hình tam giác; thái khoanh giò lụa; bày một đĩa dưa hành mẹ muối vàng, một đĩa thịt gà nấu đông; ngâm mộc nhĩ, măng, miến để nấu canh; gọt cà rốt, su hào xào chung với lòng gà. Mâm cơm cúng đã xong xuôi, tôi rót rượu ra ba chén nhỏ, châm lửa thắp nén hương lên bàn thờ gia tiên đợi mẹ đọc bài khấn.

***

–  Trang ơi, hết gi ngh trưa ri. Đng nghĩ gì mà ngưi bn thn ra thế?

Tiếng nói lanh lảnh của chị đồng nghiệp kéo tôi trở lại Hà Nội những ngày tháng xa quê. Tôi thầm tiếc nuối với hoài niệm còn dang dở trong trí nhớ, rồi cũng phải vui vẻ sống tiếp cuộc đời mình, cho hiện tại, cho cả những ngày mai nữa.