Những năm bảy mươi, tám mươi thế kỷ hai mươi về trước, bên bờ ao, bờ đầm, bờ ngòi, bờ sông con, bờ sốc hay bên bờ vùng chiêm trũng ở đồng bằng Bắc Bộ, người ta thường thấy có những người đánh giậm. Người đánh giậm có thể đã già nhưng có khi chỉ là những cậu bé tuổi choai choai mới lớn. Cũng có khi người đánh giậm là các bà, các chị, các cô gái làng với nón mê, trùm khăn kín mặt. Những năm sau này, những người đánh giậm ít hơn, nghề đánh giậm cũng khó kiếm ăn hơn.

Thời xưa, đất và nước còn trong lành lắm. Ao chuôm, hồ đầm, sông rạch là quê hương yên bình của nhiều loài thuỷ sinh. Tép, tôm, cua, ốc, cá lớn, cá bé và cả lươn, chạch nữa cứ tha hồ mà tung tăng nhảy bơi, lặn hụp. Con người muốn ăn cá, tôm, cua, ốc, lươn, chạch… phải tìm ra nhiều cách đánh bắt chúng. Những cách ấy là đi câu, là cất vó, đơm đó, thả lờ, đánh rọ, là kéo lưới, quăng chài và…cả đánh giậm nữa. Cái giậm được ra đời ngay từ thời xa xưa ấy.

Cái giậm được đan bằng tre, mắt vuông như mắt sàng nhưng nan nhỏ và tròn hơn (có lẽ người ta đan nống hai tức là cất hai đè hai ở nan ngang thứ nhất rồi lại cất hai đè hai nhưng so le đi ở nan ngang thứ hai sao cho các nan giậm cách đều nhau một khoảng cách bằng độ dài một cạnh của hình vuông mắt sàng ấy). Cái giậm cạp lại thành hình nửa quả bí ngô lớn bổ dọc. Nan giậm làm thành cái vỏ ngoài của nửa quả bí ngô đó. Khi đánh giậm, cá, tôm, cua, ốc sẽ chạy vào bên trong nửa quả bí ngô lớn đó.

Giậm có miệng giậm và mình giậm. Miệng giậm có chiều rộng chừng gần ba gang tay, chiều dài chừng năm, sáu gang tay. Nếu để miệng giậm nằm nghiêng theo chiều cán giậm về bên phải, ta sẽ thấy miệng giậm như hình chữ D in lớn. Phần phình to và rộng để hứng, chao được nhiều tôm cá.

Ngay từ sớm tinh mơ, người đánh giậm đã lên đường. Phần thịt giậm được vác về phía sau lưng, phần cán giậm đưa về phía trước. Người đánh giậm treo vào phía trước ấy một cái giận nhỏ (có người gọi cái cần giận ấy là cái doạ. Đó là một ống tre to hơn cổ chân người, dài khoảng ba, bốn tấc có đục nhiều lỗ được kết nối với một đoạn thanh tre nhỏ làm thành hình một chữ D in nữa nhưng chỉ nhỏ bằng già nửa hình chữ D in miệng giậm. Đó là giận).

Người đánh giậm phải chuẩn bị hai cái giỏ. Một cái giỏ luôn đeo ở bên hông để đựng cua, ốc vì cua, ốc không bị chết khi ở trên cạn. Một giỏ nữa để đựng tôm, cá đánh được. Giỏ thứ hai này khi đánh giậm được thả trôi trên mặt nước, nối với hông người đánh giậm bằng một sợi dây thừng chắc chắn.

Khi đánh giậm, người đánh giậm lội xuống ao hồ. Tay trái anh ta cầm cán giậm đưa về phía trước mặt chừng hơn một mét rồi từ từ ấn mạnh và dìm cái giậm xuống đáy nước. Tay phải anh ta cầm quai cần giận, chân phải đồng thời giận xuống cần giận dưới nước. Cần giận là một đoạn tre to rỗng có đục nhiều lỗ, khi giận dưới nước sẽ tạo ra những âm thanh ục…ục…sủi nhiều bọt để xua đuổi tôm cá chạy vào giậm. Tay phải anh ta nhắc thừng (quai cần giận), chân phải giận cái giận tiến dần tới miệng giậm. Khi chân anh ta giận đến sát miệng giậm thì hai tay anh ta nhanh chóng kéo miệng giậm ngửa lên trên mặt nước.

Thế là các loại tôm tép búng mình đi giật lùi, các loại cua bò ngang, các loại cá tung tăng bơi trong hồ, đầm trong khu vực bị một phen sợ hãi, chạy tán loạn vào giậm. Người đánh giậm lúc bấy giờ mới nhắc cái giậm lên trên mặt nước, bắt chúng bỏ vào giỏ.

Cái giậm là bạn đồng hành của những con người lam lũ ở làng quê. Ngày ba tháng tám nông nhàn, những ngày giáp hạt, những năm thất bát, mất mùa, cái giậm đã cứu bao nhiêu gia đình khỏi đứt bữa, cái giậm đã giúp các bà, các mẹ, các chị giữ cho căn bếp gia đình không bị nguội tàn ngọn lửa.

Bản sắc Việt: Đậm đà mắm tép đồng chiêm

Trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ đã có biết bao nhiêu thanh niên lớp lớp tình nguyện lên đường ra mặt trận. Những bàn tay xưa chỉ quen cầm cuốc, cầm cày, cầm giậm đã cầm súng chiến đấu kiên cường, dũng cảm góp phần giành lại hòa bình cho đất nước. Có biết bao nhiêu những con người như thế đã vĩnh viễn không trở về để một lần nữa được cầm cái giậm thân quen đánh bắt cá tôm nơi ao đầm của quê hương mình.

Và, cũng đã có biết bao nhiêu các cô, các cậu học trò “con nhà khó” đã lớn lên, đã học thành tài nhờ cái giậm tre trong tay những người cha, người mẹ, người anh, người chị ở những miền quê nghèo khó ấy?

Giờ đây, ở các miền quê đất nước rất hiếm nơi nào còn lại cái giậm và những người đánh giậm. Không bao lâu nữa, cái giậm sẽ vĩnh viễn không còn trong đời sống của chúng ta. Nhưng, hình ảnh những cái giậm quê nghèo đã cứu nguy cho bao nhiêu gia đình không bị đứt bữa trong các kỳ giáp hạt, hình ảnh những cái giậm trong tay những cậu bé ngày nào nay đã trở thành những anh hùng, dũng sĩ, hình ảnh những cái giậm thân thương đã gọi tép, tôm về những chợ làng buổi sớm mai để nuôi chí bền cho những cử nhân, tiến sĩ … thì còn mãi, còn mãi trong tâm trí của người dân quê, còn mãi, còn mãi trong hồn làng, hồn nước…