Bên cạnh các văn bản đăng khoa lục, các bộ sử, gia phả các dòng họ nổi tiếng…, hệ thống văn bia đề danh Tiến sĩ tại Văn Miếu Quốc Tử Giám là một nguồn tài liệu hết sức quý giá khi tìm hiểu truyền thống, thành tích khoa cử xứ Nghệ (Nghệ An, Hà Tĩnh) thời Lê sơ – Lê trung hưng. Văn Miếu là nơi ghi nhận, vinh danh thành tích cao nhất của trí thức Nho học cả nước nói chung, xứ Nghệ nói riêng t rong các kỳ đại khoa (Hội, Đình) được tổ chức tại kinh đô Thăng Long. Tại đây, hàng ngàn tiến sĩ được triều đình cho khắc đề bia. Khoa bảng xứ Nghệ luôn nằm trong số ba, bốn địa phương đứng đầu về số lượng cũng như thứ bậc (bên cạnh Bắc Ninh, Hải Dương, Hà Nội, Thanh Hóa) trong các kỳ thi.

Tám mươi hai bia Văn Miếu ghi danh những người đỗ đạt trong tám mươi hai kỳ thi, mở đầu từ năm Đại Bảo thứ 3 (1442) đến năm Cảnh Hưng 40 (1779), và được dựng bia từ năm Hồng Đức 15 (1484) đến năm Cảnh Hưng 41 (1780). Trong 82 bia thì có tới 57 bia có tên của người xứ Nghệ (24 bia có người Nghệ An, 23 bia với Hà Tĩnh, và 15 bia có cả người Nghệ An và Hà Tĩnh cùng đỗ). Trải hơn 300 năm, trong số 1304 Tiến sĩ được đề bia thì có 113 Tiến sĩ người Nghệ. Theo thống kê của Đinh Khắc Thuần (Giáo dục và khoa cử Nho học thời Lê ở Việt Nam qua tài liệu Hán Nôm – NXB KHXH 2009, trang 81), dựa theo tài liệu Đăng khoa lục, trong tổng số 2263 Tiến sĩ đỗ trong triều Lê sơ (1426-1527), Lê trung hưng (1533-1778) và nhà Mạc (1527-1592) thì có tới 142 người xứ Nghệ. Như vậy số Tiến sĩ xứ Nghệ trong bia Văn Miếu còn lại đến ngày nay chiếm 79,6% (113/142) trong tổng số người Nghệ. Loại trừ đi số bia bị mất hoặc không cho khắc bia, danh sắc đỗ đại khoa của người xứ Nghệ trên văn bia hiện còn về cơ bản đã phản ánh đúng đội ngũ đông đảo khoa bảng Nghệ trong các thế kỷ XVI-XVIII.

Nhìn chung lác đác mới có một số bia không ghi người Nghệ đỗ. Tuy nhiên có một giai đoạn khá đặc biệt khi khoa cử xứ Nghệ “mất trắng” trong 8 kỳ thi liên tục các năm 1595, 1598, 1602, 1604,1607, 1610, 1613, 1616 (Điều không thấy trên Văn bia Văn Miếu Huế. Thời Nguyễn, khoa cử Nghệ nếu bị mất mùa thì chỉ gián đoạn tối đa một mùa). Ngoại trừ hiện tượng này, còn lại phần lớn cứ đều đặn một mùa đại khoa đều có tên người Nghệ trên văn bia. Trong số 113 Tiến sĩ thì có 9 người đỗ Đệ nhất giáp, 32 người đỗ Đệ nhị giáp, 72 người đỗ Đệ tam giáp. Chín người đỗ Đệ nhất giáp là:

Ba kỳ thi lịch sử của nền khoa bảng nước ta - Giáo dục

– Cao Quýnh: huyện Đông Thành, phủ Diễn Châu (nay là xã Diễn Thành, Diễn Châu, Nghệ An). Đệ nhật giáp Tiến sĩ cập đệ khoa thi Ất Mùi niên hiệu Hồng Đức thứ 6 (1475).
– Lê Quảng Chí: xã Thần Đầu, huyện Kỳ Hoa (nay là xã Kỳ Phương, Kỳ Anh, Hà Tĩnh). Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ khoa thi Mậu Tuất niên hiệu Hồng Đức thứ 9 (1478).
– Đinh Bạt Tụy: xã Bùi Khổng, huyện Hưng Nguyên (nay là xã Hưng Trung, Hưng Nguyên, Nghệ An). Đệ nhất giáp chế khoa xuất thân khoa thi Giáp Dần niên hiệu Thuận Bình thứ 6 (1554).
– Phan Tất Thông: xã Hạ Thành, huyện Đông Thành (nay là xã Hoa Thành, Yên Thành, Nghệ An). Cùng khoa với Đinh Bạt Tụy
– Dương Trí Dụng: xã Bạt Trạc, huyện Thiên Lộc (nay là xã Yên Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh). Đệ nhất giáp chế khoa xuất thân khoa thi Ất Sửu niên hiệu Chính Trị thứ 8 (1565).
– Nguyễn Bật Lương: xã Cương Gián, huyện Nghi Xuân (nay là xã Cương Gián, Nghi Xuân, Hà Tĩnh). Đệ nhất giáp chế khoa xuất thân khoa thi Đinh Sửu niên hiệu Gia Thái thứ 5 (1577).
– Lê Phúc Nhạc: xã Lạc Xuyên, huyện Kỳ Hoa (nay là xã Cảm Lạc, Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh). Đệ nhất giáp chế khoa xuất thân cùng khoa Nguyễn Bật Lương.
– Phan Kính: xã Lai Thạch, huyện La Sơn (nay là xã Song Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh). Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ đệ tam danh khoa thi Quý Hợi niên hiệu Cảnh Hưng thứ 4 (1743).
– Nguyễn Huy Oánh: xã Lai Thạch, huyện La Sơn (nay là Đức Thọ, Hà Tĩnh). Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ đệ tam danh khoa thi Mậu Thìn niên hiệu Cảnh Hưng thứ 9 (1748).

(Trong kỳ thi Đinh không lấy đỗ trật mà chỉ định cao thấp cho thí sinh đỗ thi Hội thông qua việc đặt Tam giáp: Đứng đầu là Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ gồm Đệ nhất giáp đệ nhất danh (Trạng Nguyên), Đệ nhất giáp đệ nhị danh (Bảng Nhãn), Đệ nhất giáp đệ tam danh (Thám Hoa); đứng thứ hai là Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân; đứng thứ ba là Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân).

Trong chín người này thì Lê Quảng Chí, Phan Kính và Nguyễn Huy Oánh là ba Đình nguyên đỗ ở hàng Đệ nhất giáp. Kỳ thi năm Hồng Đức thứ 9 (1478), Lê Quảng Chí được xếp đứng đầu trong 3 người đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ. Kỳ thi năm Cảnh Hưng thứ 4 (1743) Phan Kính đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ tam danh (Thám Hoa), cả nước lúc ấy chỉ có Phan Kính đỗ Đệ nhất giáp. Nguyễn Huy Oánh cũng tương tự. Có nhiều khoa thi triều đình không lấy Đệ nhất giáp, thậm chí có lúc không lấy cả Đệ nhị giáp, chỉ lấy Đệ tam giáp. Trong các khoa thi đó thường các Tiến sĩ Nghệ vẫn nằm trong danh sách đầu bảng. Chẳng hạn, khoa thi năm Vĩnh Hựu thứ 5 (1739) triều đình không chọn Đệ nhất giáp, Vũ Diệm đỗ Đình nguyên, Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân. Các năm triều đình không chọn Đệ nhất giáp, nhiều trường hợp Tiến sĩ Nghệ nằm trong số 2 đến 5 người đỗ đầu ở hàng Đệ nhị giáp hoặc Đệ tam giáp. Chẳng hạn kỳ thi năm Quang Hưng thứ 3 (1570), Nguyễn Văn Giai là một trong bốn trúng Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân. Kỳ thi năm Quang Hưng thứ 15 (1592) Ngô Trí Hòa là một trong hai người trúng Đệ nhị giáp. Kỳ thi năm Cảnh Hưng thứ 40 (1779), Phạm Nguyễn Du là một trong hai người đỗ Đệ nhị giáp. Kỳ thi năm Cảnh Hưng thứ 21 (1760), triều đình chỉ lấy Đệ tam giáp, Nguyễn Khản là một trong năm người được chọn đỗ…

Có những kỳ thi đặc biệt khi Tiến sĩ Nghệ chiếm số lượng áp đảo so với các địa phương khác. Kỳ thi Chế khoa năm Gia Thái thứ 5 (1577), 4 trong 5 Tiến sĩ được khắc bia đều là người xứ Nghệ: Nguyễn Bật Lương, Lê Phúc Nhạc (Đệ nhất giáp), Hồ Bỉnh Quốc, Nguyễn Hoành Từ (Đệ nhị giáp). Kỳ thi năm Quang Hưng thứ 6 (1583) không lấy Đệ nhất giáp, 3 trong 4 người đỗ đều là người Nghệ: Nguyễn Phong, Trần Phúc Hựu (Đệ nhị giáp), Nguyễn Văn Thông (Đệ tam giáp)… Điều đặc biệt có một không hai trong lịch sử khoa cử khi trong kỳ thi năm Quang Hưng thứ 15 (1592) không lấy Đệ nhất giáp. Hai trong ba người đỗ đầu chính là hai cha con người xã Lý Trai, huyện Đông Thành (nay là Diễn Châu, Nghệ An). Con Ngô Trí Hòa, 28 tuổi, đỗ Đệ nhị giáp; cha Ngô Trí Tri, 56 tuổi, đỗ Đệ tam giáp. Sự kiện này rất nổi tiếng đương thời, vua Lê Thế Tôn đã tặng bức trướng 10 chữ vàng cho hai cha con khi vinh quy bái tổ “Khoa danh thiên hạ hữu. Phụ tử thế gian vô” (Đậu đại khoa thì có nhiều người. Nhưng hai cha con một khoa cùng đậu thì chưa thấy bao giờ)…

Nhiều tấm bia Văn Miếu bên cạnh ghi tên và xếp hạng Tiến sĩ Nghệ đỗ còn chép cả tên tuổi và chức tước, quan hàm của các cựu Tiến sĩ, trước đã được vinh danh khoa bảng, khoảng trên dưới 10 năm sau được triều đình bổ nhiệm, cất nhắc vào các chức mục giám sát kỳ thi hoặc phụng mệnh triều đình soạn bia, vâng sắc sửa bia.

Vài hình ảnh người vợ đằng sau các ông tiến sĩ trong lịch sử khoa bảng

Về giám sát kỳ thi: Lại bộ Tả thị lang Ngô Trí Hòa, Đệ nhị Tiến sĩ xuất thân năm Quang Hưng thứ 15 (1592) được cử làm giám thí trong liền ba khoa thi 1610, 1613, 1616. Hộ bộ Hữu thị lang Hồ Bỉnh Quốc, Đệ nhị giáp Chế khoa xuất thân năm Gia Thái thứ 5 (1577) được bổ làm Tri cống cử kỳ thi năm 1595. Hộ bộ Thượng thư Nguyễn Văn Giai, Đệ nhị giáp năm Quang Hưng thứ 3 (1580), Tri cống cử kỳ thi năm 1604. Hình bộ Hữu thị lang Nguyễn Phùng Thì, Đệ tam giáp khoa năm Vĩnh Thịnh thứ 11 (1715) làm Giám thí khoa Mậu Thìn (1748). Ngự sử đài phó Đô ngự sử Lê Kính, Đệ tam giáp năm Vĩnh Tộ thứ 10 (1628) làm Giám thí khoa thi năm 1650. Lại bộ Tả thị lang Hồ Phi Tích, Đệ nhị giáp Tiến sĩ khoa thi năm Chính Hòa thứ 21 (1700) làm Giám thí kỳ thi năm 1724. Hình bộ Tả thị lang Nguyễn Trọng Thường, Đệ tam giáp Tiến sĩ khoa thi năm Vĩnh Thịnh thứ 8 (1712) làm Giám thí khoa thi năm 1733. Hình bộ Hữu thị lang Nguyễn Nghiễm (cha của Đại thi hào Nguyễn Du), Đệ nhị giáp Tiến sĩ khoa thi năm Vĩnh Khánh thứ 3 (1731) làm Giám thí khoa thi năm 1754.

Về soạn bia, sửa bia: Nguyễn Nghiễm soạn bia đề tên Tiến sĩ khoa thi năm Cảnh Hưng thứ 27 (1766), đồng thời ông cũng là người vâng sắc sửa bài ký trên bia do Lê Quý Đôn soạn cho khoa thi năm Cảnh Hưng 30 (1769). Đặc biệt trong đợt dựng bia quy mô lớn nhất trong lịch sử có 25 tấm bia liên tục, từ khoa thi năm Giáp Dần, niên hiệu Thuận Bình thứ 6 (1554) đến khoa thi năm Nhâm Thìn niên hiệu Khánh Đức thứ 4 (1652), đều do Thượng thư bộ Lễ là Dương Trí Trạch trông nom, đảm nhiệm việc tạc dựng. Hai lăm tấm bia đều đứng tên ông vâng sắc sửa. Dương Trí Trạch, người xã Bạt Trạc, huyện Thiên Lộc (nay là Can Lộc, Hà Tĩnh) là Đệ tam giáp Tiến sĩ khoa thi niên hiệu Hoàng Định 20 (1619).

Cùng một số địa phương có truyền thống hiếu học khác, khoa bảng Nghệ thường chiếm một tỉ lệ cao. Kỳ thi năm Quang Thuận thứ 7 (1484): 5 người Nghệ trên tổng 27 người đỗ, Hồng Đức thứ 9 (1478) 6/62, Cảnh Thống thứ 5 (1562) 6/61, Hồng Thuận thứ 3 (1511) 4/47, Thuận Bình thứ 6 (1554) 5/13, Quang Hưng thứ 3 (1570) 2/6, Phúc Thái thứ 1 (1643) 2/9, Khánh Đức thứ 4 (1652) 3/9, Cảnh Trị thứ 2 (1663) 3/13, Vĩnh Trị thứ 5 (1680): 3/19, Chính Hòa thứ 21 (1700) 3/19, Vĩnh Thịnh thứ 8 (1712) 3/17, Long Đức thứ 2 (1733) 4/18, Cảnh Hưng thứ 40 (1779) 3/15.

Các địa phương xứ Nghệ có truyền thống đào tạo Nho học và thi cử đại khoa thường vẫn có con em đại diện trúng Tiến sĩ trong mỗi mùa thi. Các huyện được khắc tên trên bia đá tại Thăng Long trở nên quen thuộc trong mỗi kỳ có người Nghệ trúng tuyển. Đứng đầu số lượng Tiến sĩ được khắc bia là huyện Thiên Lộc (nay là Can Lộc, Hà Tĩnh) với 18 người. Tiếp sau là Đông Thành (nay là huyện Diễn Châu và Yên Thành, Nghệ An) 15 người, La Sơn (nay là huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh) 13 người, Thanh Chương (Nghệ An) 11 người, Nghi Xuân (Hà Tĩnh) 9 người, Thạch Hà (Hà Tĩnh) 9 người, Kỳ Hoa (nay là Kỳ Anh và Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh) 6 người, Quỳnh Lưu (Nghệ An) 5 người…

Có những xã nổi tiếng truyền thống khoa danh cũng được bia đá đề tên: xã Trung Cần, huyện Thanh Chương (nay là Nam Trung, Nam Đàn, Nghệ An) 3 người; xã Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh 3 người; xã Quan Trung, Đông Thành (nay là xã Sơn Thành, Yên Thành, Nghệ An) 2 người; xã Nội Thiên Lộc, Thiên Lộc (nay là xã Thuần Thiện, Can Lộc, Hà Tĩnh) 2 người…

Số lượng đỗ cao tại các địa phương này lại chủ yếu thuộc về các dòng họ nổi tiếng truyền thống khoa bảng. Họ Lê ở xã Nội Thiên Lộc (Can Lộc, Hà Tĩnh) có 2 anh em cùng đỗ khoa thi năm Vĩnh Hựu thứ 2 (1736): anh là Lê Sĩ Triêm, đỗ Đệ tam giáp; em: Lê Sĩ Bàng, đỗ Đệ nhị giáp (năm đó chỉ lấy 1 người đỗ Đệ nhị giáp). Họ Ngô ở xã Lý Trai , Đông Thành (nay là Diễn Kỷ, Diễn Châu, Nghệ An) 4 đời liên tiếp đỗ 5 Tiến sĩ, cả 5 đều được đề tên bia đá. Ngoài 2 cha con Ngô Trí Tri và Ngô Trí Hòa đỗ cùng khoa như đã viết, còn có Ngô Sĩ Vinh (con của Ngô Trí Hòa) đỗ Đệ tam giáp năm 1646, Ngô Công Trạc (cháu nội của Ngô Sĩ Vinh) đỗ Song nguyên (Hội nguyên – Đình Nguyên, Đệ tam giáp) năm 1694, Ngô Hưng Giáo (em của Ngô Công Trạc) đỗ Đệ tam giáp năm 1710. Họ Nguyễn Trọng ở xã Trung Cần (Thanh Chương, Nghệ An) có cha là Nguyễn Trọng Thường đỗ Đệ tam giáp năm 1712, con là Nguyễn Trọng Đương đỗ Đệ tam giáp năm 1769, ba kỳ thi sau có Nguyễn Trọng Đường (cháu đích tôn của Nguyễn Trọng Thường và gọi Nguyễn Trọng Đương bằng chú ruột) đỗ Đệ tam giáp năm 1779. Ba đời họ Nguyễn Trọng này đều được triều đình cử đi sứ nhà Thanh (Trung Quốc) nên tại nhà thờ họ ở xã Trung Cần vẫ còn bức hoành phi đề 5 chữ “Tam thế ngũ hoàng hoa” (Ba đời, năm lần được đi sứ) tương truyền do vua Thanh đề tặng.

Họ Lê ở xã Quan Trung, Đông Thành (nay là Yên Thành, Nghệ An) có cha là Lê Kính đỗ Đệ tam giáp năm 1628, con là Lê Hiệu đỗ Đệ nhị giáp năm 1643. cả hai cha con khi làm quan đều là Thượng thư đồng triều. Họ Nguyễn ở xã Hoa Lâm, Nam Đường (nay là Ngọc Sơn, Thanh Chương, Nghệ An) có cha là Nguyễn Phùng Thì đỗ Đệ tam giáp năm 1715, con là Nguyễn Bá Quýnh đỗ Đệ tam giáp năm 1733. Họ Phan ở Thu Hoạch, Thiên Lộc (Can Lộc, Hà Tĩnh) có cha là Phan Cận đỗ Đệ tam giáp 1754, con là Phan Huy Ích đỗ Đệ tam giáp năm 1775, em Phan Huy Ích là Phan Huy Ôn cũng đỗ Đệ tam giáp vào kỳ thi sau (1779). Họ Nguyễn ở Tiên Điền, Nghi Xuân (với câu ca dao quen thuộc “Bao giờ Ngàn Hống hết cây. Sông Rum hết nước, họ này hết quan”) có Nguyễn Nghiễm (cha của Đại thi hào Nguyễn Du) đỗ Đệ nhị giáp khoa năm 1731, Nguyễn Khản (anh cùng cha khác mẹ của Nguyễn Du) đỗ Đệ tam giáp năm 1760. Anh của Nguyễn Nghiễm, bác của Nguyễn Khản là Nguyễn Huệ cũng đỗ Đệ tam giáp năm 1733. Họ Đinh ở xã An Ấp (Hương Sơn, Hà Tĩnh) có cha là Đinh Nho Công đỗ Đệ tam giáp năm 1670, con là Đinh Nho Hoàn đỗ Đệ nhị giáp năm 1700. Họ Nguyễn Huy ở xã Lai Thạch, La Sơn, Hà Tĩnh có anh là Nguyễn Huy Oánh đỗ Đệ nhất giáp cập đệ Đệ tam danh (Thám Hoa) năm Cảnh Hưng thứ 9 (1748), em là Nguyễn Quýnh đỗ Đệ tam giáp năm Cảnh Hưng thứ 33 (1772). Họ Phan ở xã Việt Yên, huyện La Giang (nay là Tùng Ảnh, Đức Thọ, Hà Tĩnh) có anh là Phan Phúc Cẩn đỗ Đệ tam giáp năm Hồng Đức thứ 6 (1475), em là Phan Dư Khánh, đỗ Đệ tam giáp năm Hồng Đức thứ 12 (1481). Họ Dương ở xã Bạt Trạc, Thiên Lộc (nay là Yên Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh) có Dương Trí Dụng đỗ Đệ nhất giáp chế khoa xuất thân năm 1565, chá là Dương Trí Trạch đỗ Đệ tam giáp năm 1619.

Trong số các dòng họ xứ Nghệ thì họ Hồ ở Nghệ An với hai nhánh chính là họ Hồ ở Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu (tương truyền quê của vua Quang Trung – Nguyễn Huệ, của Bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương) và họ Hồ ở Thổ Thành, Đông Thành (Thọ Thành, Yên Thành) là họ có thành tích khoa bảng đông đảo nhất. Theo số liệu của Đào Tam Tỉnh (Khoa bảng Nghệ An, NXB Văn hóa Thông tin – 2001, trang 162) kể từ nhà Trần đến nhà Nguyễn, họ Hồ có tổng cộng 14 Tiến sĩ. Người mở đầu truyền thống khoa bảng dòng họ này là Trang nguyên Hồ Tông Thốc đời Trần. Hiện tại trong văn bia Quốc Tử Giám có 5 Tiến sĩ họ Hồ: Hồ Bỉnh Quốc đỗ Đệ nhị giáp chế khoa xuất thân năm 1577, Hồ Sĩ Dương (đời thứ 9) đỗ Đệ tam giáp năm 1652, Hồ Phi Tích (đời thứ 10) đỗ Đệ nhị giáp năm 1700, Hồ Sĩ Tân (đời thứ 11) đỗ Đệ tam giáp năm 1721, Hồ Sĩ Đống (đời thứ 13) đỗ Đệ nhị giáp năm 1772 (Hội nguyên).

Hơn 100 vị Tiến sĩ Nho học xứ Nghệ có tên trên Văn bia Văn Miếu sau khi thi đỗ đều được triều đình bổ dụng vào các vị trí cao, phát huy được sở học của mình. Tài năng của họ đã được triều đình tin tưởng, nhiều lần giao trọng trách đi sứ Bắc quốc (Một nhiệm vụ chỉ giao cho những cá nhân có vốn liếng văn chương chữ nghĩa phong phú, đủ tài ứng đáp ngoại giao). Dựa vào danh sách của Đào Tam Tỉnh thì trong số 30 sứ thần Nghệ An trong lịch sử thì Tiến sĩ trên bia Văn Miếu đã chiếm 14 vị gồm: Phạm Tất Thông, Ngô Trí Hòa, Ngô Sĩ Vinh, Lê Hiệu, Phạm Chất, Hồ Sĩ Dương, Nguyễn Đình Cổn, Phạm Kinh Vỹ, Hồ Phi Tích, Hồ Sĩ Đống, Dương Trí Trạch, Nguyễn Trọng Thường, Nguyễn Trọng Đương, Nguyễn Trọng Đường.

Trong các nhà khoa bảng xứ Nghệ, Phan Huy Chú đã chọn ra 4 người để xếp vào mục “Nhân vật chí” trong “Lịch triều hiến chương loại chí”, coi họ là những gương mặt tiêu biểu nhất của trí thức xứ Nghệ đóng góp cho quốc gia. Đó là Dương Trí Trạch, Nguyễn Văn Giai, Nguyễn Nghiễm, Ngô Trí Hòa. Bốn nhà khoa bảng mà Phan Huy Chú chọn ra đều là những công thần có công đầu triều, được thăng tiến liên tục trên hoạn lộ, có trí đức hơn người; ghi chép của Phan Huy Chú nhấn mạnh vào tiểu sử phò tá qua nhiều đời vua, sự trung thành và tài ba đối nội đối ngoại khiến cho các vị xứng đáng nhận được sự trọng vọng của triều đình.

Nhìn chung đội ngũ khoa bảng xứ Nghệ thời Lê Sơ, Lê trung hưng chủ yếu đóng góp về phương diện quan trường, giữ các vị trí quan trọng trong ngạch triều đình. Số lượng các nhà khoa bảng có trước tác tiếng tăm để lại cho đời không nhiều. Một khi đã kết thúc giai đoạn học tập quyết khoa thì làm quan, gánh vác chính sự là bổn phận chính của họ. Nhìn từ phương diện này, có thể nói khoa cử xứ Nghệ đã cung cấp cho chính quyền phong kiến trung ương một đội ngũ quan lại cao cấp, dồi dào, có tài năng và chí tiến thủ để đảm đương các công việc mà chính quyền bổ nhiệm.

(Dẫn Theo Nguyễn Đào Nguyên, Tạp chí Văn hóa Nghệ An số 172+173/2010)