Vào ngày 12/8 âm lịch hằng năm, nhiều nghệ sĩ từ khắp nơi trên mọi miền Tổ quốc lại hân hoan chào mừng ngày lễ Sân Khấu Việt Nam. Trải qua hơn mấy ngàn năm lịch sử xây dựng và phát triển, nghệ thuật sân khấu dân gian đã dần đi sâu vào hơi thở đời sống, góp phần không nhỏ trong công cuộc đa dạng hóa, phong phú hóa những bản sắc tinh hoa của con dân đất Việt và là một món ăn tinh thần không thể thiếu của công chúng. Cùng với tuồng, chèo, cải lương và kịch dân ca, nghệ thuật sân khấu múa rối nước, hay còn gọi là trò rối nước từ một loại hình nghệ thuật mang yếu tố dân gian đã trở thành một sản phẩm trình diễn truyền thống, một sáng tạo đặc biệt của người Việt.

Đã có rất nhiều tranh cãi xoay quanh nguồn gốc hình thành của loại hình nghệ thuật có một không hai này. Theo các truyền thuyết và huyền thoại lịch sử, trò múa rối nước đã ra đời từ thời xây dựng thành Cổ Loa (Đông Anh, Hà Nội), Kinh An Dương Vương vào khoảng năm 255 trước Công nguyên. Tuy nhiên các nhà nghiên cứu nghệ thuật thì cho rằng sử sách và bia đá mới là những chứng tích rõ nét hơn cả giải thích sự ra đời của trò rối nước. Theo đó, môn nghệ thuật truyền thống này ra đời vào năm 1121 dưới triều Lý, ở vùng châu thổ sông Hồng. Ở đó, bia Tháp Sùng Thiện Diên Linh dựng năm 1121 có viết: “Thả rùa vàng đội ba ngọn núi, trên mặt sóng dập dờn. Phơi mai vân để lộ bốn chân, dưới dòng sông lờ lững, liếc mắt nhìn lên bờ, cúi xét bầu trời lồng lộng. Trông vách dựng cheo leo, dạo nhạc thiều réo rắt. Cửa động mở ra, thần tiên xuất hiện. Đều là dáng điệu thiên cung, há phải phong tư trần thế.

Vươn tay nhỏ dâng khúc Hồi phong, nhăn mày thúy ngợi ca vận tốt. Chim quý từng đàn ca múa, thú lành từng đội xênh xang.” Loại hình này thường được biểu diễn vào dịp lễ, hội làng, ngày vui hay ngày Tết và theo thời gian, nghệ thuật múa rối cũng được truyền từ đời này sang đời khác như một thú chơi hết sức tao nhã. Hiện nay, đặc phẩm dân gian này chỉ tồn tại duy nhất ở Việt Nam mà không có ở một nơi nào khác. Trong kho tàng trò rối nước, có 30 tiết mục cổ truyền và hàng trăm tiết mục rối hiện đại kể về những sự tích dân gian và đời sống hàng ngày của người dân Việt. Vào năm 1992, mười bảy trò múa rối đã đươc phục hồi bởi Nhà hát múa rối Thăng Long và đã làm sống lại cả một nền nghệ thuật lâu đời. Những trò múa rối này bao gồm: Bật cờ, Chú Tễu, Múa rồng, Em bé chăn trâu, Cày cấy, Cậu ếch, Bắt vịt, Đánh cá, Vinh quy bái tổ, Múa sư tử, Lê Lợi trả gươm, Nhi đồng vui chơi, Đua thuyền, Múa lân, Múa tiên, Tứ linh.

Đặc điểm nổi bật của múa rối nước đã nằm ngay ở tên gọi của nó. Nếu ở Ấn Độ và các nước Đông Nam Á chỉ có rối que, rối dây và rối tay thì ở Việt Nam lại xuất hiện con rối được trình diễn trên mặt nước. Sân khấu đó được gọi là nhà rối, hay thủy đình. Tìm về đất Hải Dương, nơi được coi là cội nguồn của nghề múa rối, ta lại biết thêm nhiều chi tiết về khu vực thủy đình này. Thủy đình thường được dựng lên ở giữa ao với kiến trúc cân đối, tượng trưng cho mái đình, mái chùa ở nông thôn Việt Nam. Người nghệ nhân rối nước sẽ đứng ở phía bên trong buồng trò để điều khiển con rối. Thủy đình thường sẽ rộng khoảng 30 mét vuông, di động được.

Trước đây, khu vực này được làm bằng tre, nứa, có phông che, xung quanh trang trí đầy đủ cờ, quạt, lọng, voi, cổng và tên phường rối treo ở bên ngoài, xung quanh kết hợp cùng với nghệ sĩ lồng tiếng cùng tiếng trống, tiếng pháo phù trợ. Mực nước trong thủy đình được giữ ở mức không quá 1m, thường là khoảng 0,8m với màu nước xanh đặc trưng hòa phẩm màu. Điểm mấu chốt của các buổi diễn rối nước nằm ở kỹ xảo điều khiển rối. Dưới bàn tay tài hoa của người nghệ nhân và sự giúp đỡ của máy móc thiết bị, khung cảnh làng quê thu nhỏ dân dã và bình dị hiện lên đầy chân thực và sống động. Máy điều khiển rối nước được chia ra làm hai loại: máy sào và máy dây. Thân máy ẩn sau buồng trò và nằm dưới nước, giấu kín thanh giữ rối và lợi dụng sức nước, tạo ra những cử động linh hoạt, cống hiến cho người xem nhiều điều bất ngờ. Người nghệ nhân phải hết sức khéo léo chuyển động theo dòng nước. Họ thao tác từng cây sào, thừng, vọt hoặc giật con rối bằng hệ thống dây được thiết kế tỉ mỉ dưới nước. Điểm thành công hơn cả trong một buổi diễn rối là thân rối đưa ra được những cử chỉ, hành động một cách tự nhiên, mang tính pha trò nhưng đồng thời cũng phải toát lên được ý nghĩa dân gian sâu sắc. Không chỉ có vậy, việc điều khiển rối còn là công cụ cho một cách biểu đạt gắn bó mật thiết với âm thanh, hệt như loại hình nghệ thuật múa.

Từng nhịp, phách của bài nhạc gắn liền với từng động tác đưa tay, lắc đầu của con rối, gây không khí với tiết tấu uyển chuyển của làn điệu chèo và dân ca Bắc Bộ. Càng về sau này, kỹ thuật múa rối, tạo dựng sân khấu càng thêm tinh xảo với hiệu ứng âm thanh, khói tỏa, phóng nước, đòi hỏi một đội ngũ múa rối tinh nhuệ và tài năng. Một buổi diễn thành công chính là sự kết tinh vẻ đẹp bởi nhiều yếu tố, nhưng hơn cả chính là nét đẹp lao động, từ đôi chân ngâm dưới nước, đến đôi bàn tay thoăn thoắt điều khiển con rối của người nghệ nhân. Quả thật, nghệ thuật múa rối chính là vẻ đẹp của giá trị dân gian truyền thống hòa hợp hữu tình với vẻ đẹp lao động của con người Việt Nam.

Linh hồn của một buổi múa rối không ai khác chính là những con rối. Thông thường, rối sẽ được làm từ gỗ sung – loại gỗ nhẹ để có thể dễ dàng nổi lên trên mặt nước. Từ một miếng gỗ thông thường, người nghệ nhân làm rối sẽ tiến hành đục đẽo với những đường nét riêng, đánh bóng và trang trí với nhiều màu sơn khác nhau cho ra hình thù tạo hình của những con rối. Dưới bàn tay tài hoa của người thợ làm rối, hình thù của chúng thường được đặc tả một cách ngộ nghĩnh, hóm hỉnh, đem lại thái độ tích cực, tươi vui đến người xem. Tạo hình ấy cũng tuân theo một nguyên tắc cổ truyền của cha ông ta, đó chính là “Chân – Thiện – Mỹ”, điển hình như việc con rối nữ thì mặt phải trái xoan, thắt đáy lưng ong, đàn ông thì mặt chữ điền, răng đen.

Các tuyến nhân vật múa rối thì đa thể loại, từ đời sống tâm linh như thần linh, tiên thần, linh vật cho đến những anh hùng dân tộc, con người và những loài gia súc, gia cầm của người nông dân. Tùy theo kịch bản mà bây giờ màu sắc đã dần đa dạng hơn, nhưng trước kia, màu sắc ưa chuộng để sơn lên những con rối là màu hồng diện, vàng ròng, đen, đỏ. Để hoàn thành một bộ rối nước cần phải mất từ 4 – 5 tháng, từ việc nghiên cứu kịch bản, chọn gỗ, đục đẽo gỗ rồi đến hóa trang, trang trí và lắp máy, lắp dây, chưa kể đến việc thời tiết ẩm cũng ảnh hưởng không nhỏ đến việc phơi khô con rối. Một nhân vật điển hình của loại nghệ thuật rối nước có thể kể đến là chú Tễu. Thông thường, chú Tễu sẽ to hơn hẳn những con rối khác. Theo tiếng Nôm, “Tễu” nghĩa là tiếng cười, chú Tễu vì thế mà thường sẽ là nhân vật pha trò, tạo cảm giác vui vẻ, chọc cười khán giả trong buổi diễn. Ngoài ra, Tễu còn là nhân vật giới thiệu, tự sự, dùng cái hài hước của mình để châm biếm về những bức bối thế sự, thời cuộc. Về vẻ bề ngoài, chú Tễu là nhân vật khoảng 7 – 8 tuổi với thân người đầy đặn, đóng khố và để lộ chiếc bụng phệ – một hình ảnh đại diện cho anh nông dân miền đồng bằng Bắc Bộ. Chú Tễu là nhân vật khá nổi tiếng và phổ biến trong nhiều vở diễn, đến mức hình ảnh của kẻ chọc cười thiên hạ này đã được đi vào thơ ca:

Làng mình mở hội hay chưa
Đi xem múa rối ao chùa canh đêm
Tễu cười toét miệng ngoi lên
Trăng rằm rơi tõm in nền nước xanh
(Hoàng Anh Tuấn)

Hiện nay, ở Việt Nam có nhiều phường múa rối khác nhau hoạt động riêng biệt. Ngoài đoàn múa rối chuyên nghiệp ở trung ương, ở Hải Dương có ba phường múa rối lớn được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia lần lượt ở huyện Thanh Hà, huyện Gia Lộc và huyện Ninh Giang. Ở Hà Nội lại có phường rối Đào Thục (Đông Anh, Hà Nội) với thâm niên lâu năm từ thời Hậu Lê, hay ở Bắc Ninh có phường rối Đồng Ngư cũng được vinh danh là di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia vào năm 2012.

Chung quy lại có thể thấy, nghệ thuật múa rối dù đã đi qua biết bao thăng trầm của lịch sử thì vẫn giữ cho mình những nét độc đáo thu hút khán giả, dù là già trẻ, gái trai. Bản thân loại hình nghệ thuật này cùng nhiều đoàn múa rối tham gia các giải múa rối quốc tế, gặt hái được những thành công nhất định và gây được nhiều sự hứng thú của khán giả ngoài nước. Hy vọng rằng loại hình nghệ thuật này vẫn sẽ được bảo tồn, phát huy và trở thành một trong những di sản văn hóa dân tộc, đưa bạn bè quốc tế đến gần hơn với con người và đất nước Việt Nam