Trong chuyến công cán Trung Hoa mùa thu năm ngoái, tôi có dịp ở lại Hàng Châu ít ngày. Hàng Châu bây giờ là thủ phủ tỉnh Chiết Giang.

Hơn hai nghìn hai trăm năm trước, Chiết Giang thuộc Giang Nam, đất của Ngô Vương Tôn Quyền – người anh vợ bất đắc dĩ của Lưu Huyền Đức, vua Thục Hán thời Tam Quốc.

Trước đó khoảng ba bốn trăm năm, vào thời Chiến Quốc, Chiết Giang thuộc đất Việt của Việt Vương Câu Tiễn mà Hàng Châu là kinh đô. Hàng Châu còn được gọi là Tiền Đường thành, vì có sông Tiền Đường chảy qua. Hàng Châu cũng gần Cối Kê thành – kinh đô thứ hai của Câu Tiễn – do Phạm Lãi xây dựng sau khi hai người được Ngô Vương Phù Sai thả về. Cũng vì việc thả Câu Tiễn và Phạm Lãi này, mà nước Ngô không còn tên trên bản đồ Trung Hoa thời Chiến Quốc nữa. Nó bị mất vào tay nước Việt.

Ngất ngây với vẻ đẹp yên bình của Hàng Châu | VOV.VN

Hàng Châu cũng là nơi sinh sống của La Bản, tức La Quán Trung, biệt hiệu Hồ Hải Tản Nhân, tác giả bộ “Tam quốc diễn nghĩa” vĩ đại và cũng là đồng tác giả “Thủy Hử truyện” cùng với Thi Nại Am thời cuối Nguyên, đầu Minh, tức cách đây độ dăm sáu trăm năm. Hàng Châu cùng với Tô Châu, tức Cô Tô thành xưa, nơi Ngũ Tử Tư xin được treo mắt lên cổng thành để đợi ngày nhìn quân Việt phá Ngô, mà từ ấy cũng thuộc về nước Việt, là khởi điểm của “Con đường tơ lụa” nổi tiếng, xuyên qua Trung Á để tới Châu Âu… Xem thế, đủ biết Hàng Châu đáng ở như thế nào. Nhưng chuyện tôi gặp ở Hàng Châu thì mới thật là kỳ lạ!

Tôi ở nhà khách Tây Tử, thực ra là ở một biệt thự nơi mép nước trong cụm biệt thự du lịch bên bờ Tây Hồ, con hồ thơ mộng bậc nhất Trung Hoa. Tây Tử là tên các văn nhân dùng để gọi Tây Thi tuyệt sắc – người con gái Việt giặt lụa bên khe Nhược Gia, núi La Sơn, huyện Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang – mà Câu Tiễn đem dâng cho Phù Sai cách đây hơn hai nghìn năm trăm năm rồi. Cái bến thuyền bên nhà, nơi đưa đón khách vãn cảnh Tây Hồ – cũng được gọi là Bến Tây Tử.

Vừa lạ nhà vừa ngẩn ngơ nghĩ chuyện Tây Thi – Phạm Lãi, Câu Tiễn – Phù Sai ngay trên quê hương của họ, tôi không sao ngủ được. Quãng 11 giờ khuya, khoác thêm chiếc áo ấm, tôi lững thững tản bộ dọc Bến Tây Tử.

Bến vắng. Những ngọn đèn ẩn nơi mép nước rọi ánh sáng mạnh lên ngàn cây liễu thướt tha cao vút quanh hồ, tạo ra cả một chân trời màu ngọc bích. Bên trên cái chân trời ngọc bích ấy là trời đêm mênh mông, loáng thoáng mấy vì sao. Trăng thu lên cao, tròn vành vạnh. Gió thu, sương thu, trăng thu và ánh sáng từ những cây liễu hắt xuống, làm cho mặt hồ càng thêm huyền ảo. Những con thuyền đã tắt hết đèn neo trên bến. Những “trạo nhi”- người chèo thuyền – chắc đã yên giấc ở nhà họ từ lâu. Chầm chậm tôi đi.

Đến chỗ ngoặt, vừa vòng qua một hòn giả sơn có trồng trúc và phù dung, chợt thấy một người con gái thướt tha như liễu bên mé nước, tay cầm chiếc đèn lồng nhỏ, lễ phép cúi chào tôi và nói:

– Theo lời ước ban chiều, nay xin tới đón!

– Ước ư? – kinh ngạc, tôi hỏi lại.

Nàng đưa tôi một tờ giấy mầu phấn hồng và bảo:

– Cái này chưa phải một lời ước sao?

Tôi cầm tờ giấy, soi nhờ ánh đèn lồng của nàng. Trên tờ giấy là bài thơ ngắn “Gửi Tây Thi”. Bài thơ như sau:

Lầu Tây Tử ta tìm người trong sách
Giai nhân xưa cười nói ở đâu nào?
Bến Tây Tử bao lần đưa đón khách
Ta là ai trong chán vạn phong lưu?
Ước gì gặp kẻ khuynh thành ấy
Xem người xưa giờ khác bao nhiêu?”

Thì đây chính là nét chữ của tôi, tờ giấy của tôi, bài thơ của tôi, trên tờ giấy trong tập giấy nhà khách cấp cho tôi! Ban chiều, tôi cũng vơ vẩn bên hồ, rồi đem thả chính tờ giấy này, xuống đúng chỗ này.
Sung sướng và sợ hãi, tôi bật hỏi:

– Tây Tử! Nàng đấy ư? Lại thế được ư?

Nàng chưa trả lời mà cười và đọc một bài từ :

Trường Giang (hề) cuồn cuộn chảy về Đông
Sóng vùi dập (hề) hết anh hùng
Được, thua, phải, trái (hề) thoắt thành không
Non xanh (hề) nguyên vẻ cũ
Mấy độ (hề) bóng tà hồng!
Khách thơ (hề) xin mời lên thuyền liễu
Một bầu rượu (hề) vui vẻ tương phùng
Xưa nay (hề) bao nhiêu việc
Phó mặc (hề) nói cười không”.

Vì sao đại mỹ nhân Tây Thi chết thảm?

Đọc rồi, nàng quay ra mặt hồ, cầm chiếc đèn lồng huơ lên ba vòng. Tự nhiên thấy một con thuyền liễu, mui bằng cỏ lau, rẽ nước cập bến không một tiếng động. Đứng cuối thuyền là một người đàn ông cao lớn đội nón dứa, mặc quần áo vải thô, dận dép cỏ. Nàng nhìn tôi và bảo:

– Con thuyền này chờ khách đã lâu rồi!

Tôi trỏ người đàn ông trên thuyền:

– Kia là…

– Bạn thiếp. Như người đời vẫn nói, đó là Phạm Tướng quân.

– Là Phạm Lãi ư?

Người đàn ông bỏ nón, cung kính vái chào theo kiểu ngày xưa, thay cho việc trả lời.

Tôi theo nàng lên thuyền. Nàng treo chiếc đèn lồng lên nóc mui và mời tôi ngồi. Những chỗ ngồi cũng được ghép bằng lau lách. Bấy giờ, tôi mới nhìn kỹ được. Đó là một nàng tuổi ngoài đôi chín, da trắng như ngà, tóc tựa mun đen, môi như tô son, cổ tròn ba ngấn. Đặc biệt nhất là đôi mắt. Đôi mắt nàng to, thăm thẳm, mênh mông, vừa ưu sầu vừa thông minh và thơ trẻ. Đôi lông mày xanh và dài như hai lá liễu Tây Hồ, vừa oai nghi vừa hiền thục, đều đặn uốn cong trên đôi mắt nàng, khiến vầng trán trắng xanh của nàng có một vẻ cao quý, thoát tục lạ thường. Nàng mang y phục màu tro của hoa phù dung lúc về chiều, may bằng lụa Hàng Châu, bên ngoài khoác chiếc áo cừu may bằng lông điêu trắng, dận đôi giày gấm xanh thêu kim tuyến – rõ là trang phục cung đình. Tóc nàng không cài trâm hoặc đeo kim thoa. Mái tóc đen nhánh rất dài của nàng buông suốt theo tấm thân thon thả vô song, chỉ được trang điểm bằng một vòng đậu đỏ buộc hờ. Lúc này, Phạm Lãi cũng đã vào khoang cùng nàng tiếp khách. Nhìn cách ăn mặc quá khác nhau của hai người, tôi cứ băn khoăn mà không dám hỏi.

Như đoán được lòng tôi, Tây Thi cười bảo:

– Bộ xiêm y bằng lụa và đôi giày gấm này là do Phạm Tướng quân tặng cho thiếp lúc sang Ngô. Áo cừu là do Ngô Vương tặng thiếp lúc ở Cô Tô đài. Thiếp luôn mang chúng trên mình để nhớ cái thời tao loạn ấy. Vòng đậu đỏ là do mẹ thiếp cho, khi thiếp còn là cô gái giặt lụa ở khe Nhược Gia. Chỉ Nam Trung Hoa mới có giống đậu đỏ này. Hạt của nó rất xinh. Các thôn nữ thường dùng làm đồ trang sức. Xưa nó tượng trưng cho tình yêu, nên cũng được gọi là “Hạt Tương tư”. Còn Phạm Tướng quân đây, sau khi bỏ Việt Vương thì chèo thuyền vào hồ, lên núi tu tiên. Tướng quân đắc đạo và không còn bận mùi trần thế nữa.

– Sao bảo Tướng quân đưa cả nàng vào hồ rồi thành ra Đào Công?- tôi hỏi lại.

– Đấy là do người đời nhớ mến Phạm Tướng quân và thiếp mà nghĩ ra thế. Sự thực là ở Ngô về, Câu Tiễn phu nhân hẹp lượng, có lòng nghi kỵ, sợ cái dớp khuynh thành, nên lén sai người bắt thiếp cho vào bao đá, thả chết chìm ở sông Tiền Đường, ngay tại Bến Chiết Giang! Lúc ấy, Phạm Tướng quân đang mải mê phục quốc báo thù, ngày đêm xây dựng Cối Kê thành, chỉ biết cái nạn của thiếp sau khi việc đã xong rồi! Mà nếu biết sớm, phỏng cũng có giúp được gì? Ngày xưa, phận đào hoa nào có ra đâu! Việc lập vương dựng bá mới là trọng. Vả lại, thân thiếp lúc ấy cũng là thân nhơ nhuốc rồi. Sau này, Phạm Tướng quân thành tiên, thiếp là người của bóng tối, âm dương cách biệt, gặp đấy mà không thể cùng chung xe loan phượng, hàng nghìn năm nay chỉ coi nhau như bạn… Nhưng thôi, thời thế lúc ấy là như vậy. Chuyện cũng quá lâu rồi, không nhắc lại nữa.

Tôi đưa mắt nhìn Phạm Lãi, thấy Tướng quân cúi đầu, vẻ mặt rất khó đoán.

Tôi bảo :

– Phạm Tướng quân là bề tôi kiên trung, giàu chí lớn, lại là người dũng lược mà chí tình. Anh hùng trong thiên hạ được mấy người như thế? Tướng quân thành tiên là phải.
Phạm Lãi chỉ lắc đầu, xua tay không nói.

Tây Thi ra hiệu. Phạm Lãi trỏ tay ra giữa hồ, con thuyền nhẹ nhàng tách bến, quay mũi, không cần chèo, không tiếng động, êm ái lướt đi. Bến Tây Tử xa dần.

Giữa thuyền, trước mặt chúng tôi là một chiếc bàn vuông thấp, đóng bằng gỗ liễu. Trên bàn có một hồ rượu và ba chiếc chung bằng đồng đúc. Tây Thi trỏ hồ rượu bảo :

– Đêm nay, xin cùng khách thơ cạn hồ rượu này!

Nàng rót rượu rồi sẽ sàng :

– Rượu này là rượu Thiệu Hưng quê thiếp. Đây là một trong bẩy danh tửu Trung Hoa. Dùng lạnh thì không tốt, nhờ Phạm Tướng quân hâm nóng giúp cho.

Giai thoại về mỹ nhân Tây Thi trong lịch sử Trung Hoa - 2sao

Phạm Lãi xòe hai bàn tay trên mấy chung rượu. Tôi như thấy có ánh lửa xanh từ tay chàng bay xuống, lấp loáng trên mặt rượu. Giây lát, chàng thu tay về, Tây Thi mời chúng tôi nâng rượu thưởng trăng. Rượu quả rất ấm. Dùng vào, mặt nóng bừng mà tâm trí rất là phấn chấn.

Tây Thi bảo tôi:

– Thiếp và Phạm Tướng quân là chủ, còn chàng là khách. Thì giờ còn nhiều, đường còn xa, trước hết, thiếp xin đàn một khúc.

Nàng lấy trong ngăn ra một cây đàn nguyệt và lại bảo:

– Đàn này vốn không có ở Trung Hoa. Những người chết chìm oan khiên như thiếp, đều có “Tiềm thuỷ du pháp”, đi lại dưới nước như thần. Mấy năm trước, thiếp theo dòng Trường Giang ra Đông Hải, xuống được tới phương Nam của chàng, học được phép chơi đàn này. Nay xin mạo muội lấy đàn Nam đãi khách Nam. Cây đàn quê chàng, khả năng diễn tấu hẹp, nhưng cần đàn dài, các phím khá xa nhau, dễ nhấn nhá và rất đắc dụng khi diễn tấu những điều sâu xa tự đáy lòng.

Nói rồi, nàng vừa đàn vừa hát:

Đàn chim (hề) bay cao
Vẫy vùng (hề) đường mây!
Thân thiếp (hề) vô tội
Trách trời (hề) độc thay!
Hây hây (hề) gió may
Trở về (hề) bao ngày!
Lòng đau (hề) như cắt
Nước mắt (hề) vơi đầy.”..

Thuyền đi. Nàng đàn và hát. Phạm Lãi và tôi bên rượu, nghe đàn. Thuyền đi mãi, ra khỏi hồ rồi theo sông Tiền Đường mà đi tiếp. Càng hát, mặt hoa càng đầm đìa lệ ngọc. Phạm Lãi mắt vô hồn. Tôi lòng tan nát!

Nhưng vì sao nàng lại hát bài này? Đây là bài hát mà chính Câu Tiễn phu nhân, khi sang Ngô ở Bến Chiết Giang ngày ấy, đã hát kia mà.

Chợt nàng buông đàn, ngửa mặt lên trời mà than rằng:

– Phu nhân cũng là đàn bà như thiếp. Lòng phu nhân cũng biết vui buồn như thiếp. Sao phu nhân nỡ bắt thiếp chết tức tưởi như thế? Hỡi phu nhân!

Lòng tôi đau đớn quá! Dù chuyện xảy ra đã rất lâu rồi, nhưng thật khó mà những người đàn bà tha thứ cho nhau! Khốn nỗi, nàng càng khóc càng sầu thì càng đẹp. Mà nàng đẹp thế, thì biết khuyên giải thế nào!

Lại không để tôi phải khuyên giải, nàng lau nước mắt trỏ ra bờ sông, nghẹn ngào:

– Kia chính là Bến Chiết Giang!

Tôi nhìn ra, dưới ánh trăng, chỉ thấy hai bờ um tùm cây lá, đâu có thấy bến bãi nào! Tôi nhìn nàng, Tây Thi sụt sùi kể:

– Sau khi thiếp chết, mọi người thương cảm, không dùng bến cũ nữa. Bến mới bây giờ lùi lên tận Cối Kê thành.

Một lát, rồi nàng cũng nguôi ngoai. Nàng bảo với Phạm Lãi:

– Phạm Tướng quân nên đưa khách thăm Cối Kê!

Phạm Lãi trỏ tay ngược lại, con thuyền ngoan ngoãn quay mũi. Một lúc, bên bờ phải đã thấy một quả núi nhỏ hình con rùa. Phạm Lãi chỉ quả núi kể rằng:

– Rời Ngô sau ba năm ba tháng khốn cùng, Việt Vương muốn ghi sâu trong lòng cái nhục Cối Kê, bèn lệnh thiên đô ra đây và giao cho tôi lo liệu. Tôi xem thiên văn, xét địa lý, lập ra một cái thành mới, bao bọc núi Cối Kê ở trong. Phía Tây Bắc lập Phi Dục Lâu ở núi Ngọa Tang để làm Thiên Môn. Phía Đông Nam lập Thạch Đậu Lâu để làm Địa Bộ. Còn mặt chính Bắc thì để không và nói phao lên rằng, không dám lấp đường cống tiến nước Ngô vì đã thần phục nước Ngô rồi, nhưng kỳ thực là để tiện đường đánh Ngô sau đó. Khi đắp thành xong, bỗng thấy trong thành mọc lên quả núi này. Núi hình con rùa, chu vi vài dặm, cây cỏ rậm rạp. Có người trông quả núi, nhận ra đó chính là núi Đông Vũ ở xứ Lang Gia, không biết cớ sao lại bay đến đây được. Tôi tâu với Việt Vương rằng, đó là điềm nước Việt nên được nghiệp bá. Việt Vương mừng lắm, đặt tên núi là Quái Sơn, cũng gọi là Phi Lai Sơn – núi bay đến từ nơi khác – hay còn gọi là Quy Sơn – Núi Rùa. Việt Vương, từ khi nếm phân đoán bệnh cho Phù Sai, thành ra có bệnh hôi miệng. Tôi biết có một nơi có thứ rau trấp, ăn được nhưng có mùi hôi, mới sai người đi hái rau trấp về, cả triều cùng ăn, để vua không phải hôi miệng một mình nữa…
Kể mãi, rồi Phạm Lãi thở dài:

– Tôi biết Việt Vương chỉ có thể cùng sống lúc hoạn nạn, chứ không thể cùng sống khi sung sướng. Sau khi phá Ngô, tôi bỏ vào hồ. Tôi có rủ Văn Chủng, ông ấy không nghe, thành ra phải “bất đắc kỳ tử” như vậy. Còn Tây Thi, nàng đã kể chuyện mình. Đâu còn có thể có chuyện gì giữa một người cõi tiên và một người cõi âm được.

Nói rồi, Phạm Lãi thở dài, nhìn trân trân lên Phi Lai Sơn.

Dù Tây Thi có bảo, Phạm Tướng quân tu tiên đắc đạo, không còn bận mùi trần, nhưng xem ra thì chưa hẳn. Trong lòng chàng rõ là vẫn âm ỉ câu chuyện hơn hai ngàn năm trăm năm trước. Dù sao, chuyện Phạm Lãi và Tây Thi bỏ vào hồ sống với nhau, quả là chuyện thêu dệt của đời sau.

Mệnh danh đại mỹ nhân, Tây Thi xấu hổ vì khuyết điểm cơ thể nào

Tôi hỏi Phạm Lãi:

– Phạm Tướng quân thấy mối bang giao giữa các nước bây giờ khác ngày xưa như thế nào?

Phạm Lãi nhấp rượu, thong thả nói:

– Lâu quá rồi tôi không xem chính sự. Dù sao thì lòng yêu nước, chí quật cường là có thật. Tôi vẫn luôn kính trọng những người vì nước quên thân, nhưng việc can qua là việc nên tránh. Nếu không, sẽ còn bao nhiêu Tây Tử nữa đây?

Rồi Phạm Lãi quay sang nói với Tây Thi:

– Đã canh tư rồi ! Canh năm, Tây Tử phải hồi viên.

Tây Thi gật đầu. Phạm Lãi trỏ xuôi. Con thuyền quay mũi rồi từ sông lại đi vào hồ, lát sau đã thấy Tây Tử Lâu trước mặt. Về tới bến. Nàng nâng rượu mời tôi và nói:

– Chỉ một canh nữa là thiếp phải xa chàng. Thiếp biết lòng chàng ngưỡng mộ và thương xót thiếp lắm. Thật chẳng có ai như chàng, xa xôi đến thế mà để lòng thăm viếng thiếp, thiếp vô cùng cảm tạ! Nếu những điều thiếp nói đêm qua có gì chưa phải, chàng bỏ quá cho! Dù sao thiếp cũng chỉ là đàn bà. Một canh còn lại, ta dùng cạn hồ rượu này và xin chàng cho thiếp một bài thơ nữa. Từ nay đâu còn có thể gặp nhau.

Tôi bảo, thơ Trung Hoa viết về nàng đã nhiều và hay lắm rồi, tôi không dám cầm bút nữa. Nàng và Phạm Lãi đều cố năn nỉ, rằng bài thơ thả xuống hồ làm hai người rất cảm phục; rằng chỉ những kẻ cao ngạo mới nói, đã có thơ Trung Hoa rồi thì không cần ai làm thơ nữa; rằng thơ cốt ở lòng chứ không ở thuật…

Cuối cùng, “cung kính không bằng vâng lệnh”, mà đây là lệnh của Tây Thi chứ của ai, tôi bằng lòng. Thế là nàng lấy bút, bảo tôi đọc thơ cho Phạm Lãi chép lên giấy tốt. Bài thơ tôi tặng nàng gọi là bài “Nghe đàn nguyệt ở Tây Hồ”. Thơ như sau:

Tơ trắng muốt căng qua trăng viên mãn
Chiếc cần đàn mảnh như phận người con gái
Nàng đang buông bắt trên cần đàn
Những thanh âm bật ra từ bầu trăng tròn ấy
Ta vào hồ trăng
Lúc đầu, tiếng đàn là của nàng
Nghe một dạo, ta thấy đó là gió, cây, mây và sương thu lên tiếng
Nghe một dạo nữa, ta lại thấy tiếng đàn ấy bật ra từ ngực ta
Lúc nàng dạo nhẹ, nhịp điệu rất thong thả, ta nghe được cả tiếng thở dài
Lúc nàng gảy mau, như thác đổ xuống thác, ta vẫn thấy tiếng thở dài ấm áp của nguyệt cầm
Đến khi nàng dừng tay, thì chính im lặng lại làm nên những thanh âm ta chưa bao giờ được biết
Từ ấy, cứ khi nào im lặng kéo đến, ta lại nghe văng vẳng nguyệt cầm
Từ ấy, khi xa nàng, ta chỉ còn yêu sự im lặng”.

Nghe xong, nàng khóc và bảo:

– Hóa ra dưới gầm trời này, vẫn có người thương thiếp đến thế! Hóa công há chẳng rộng lòng với thiếp lắm ru! Từ nay, thiếp xin giải hết mối sầu hận ở trong lòng.
Đưa tôi lên bờ, mặc Phạm Lãi đứng bên giục mãi, nàng cứ dùng dắng chẳng đi. Tôi cũng chỉ mong trời đừng sáng nữa. Chợt xa xa vẳng lại tiếng gà. Nàng giật mình, tái mặt, rồi nói:
– Chết nỗi, gà báo canh năm rồi, thiếp không thể lưu luyến được nữa. Xin chàng hãy bảo trọng!

Nói rồi, nàng gạt lệ, cùng Phạm Lãi xuống thuyền.

Bỗng chốc đã không thấy gì nữa…

Đỗ Trung Lai